Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

NÔNG DÂN

 
Có người nói nông dân không tư tưởng
Nông dân làm cản trở bánh xe lăn
Tôi đã thấy nông dân suốt một đời làm lụng
Nuôi cái ăn chung trên mảnh đất khô cằn.
Tôi đã thấy trên chiến trường ngã xuống
Những nông dân áo lính, máu tươi ròng
Chết tưới đất, sống ngày cày xới đất
Không bổng lộc nào theo đến luỹ tre xanh.
Tôi đã thấy những xiềng xích phong kiến
Cái trói tay của công hữu màu mè
Mấy chục năm kéo người xa ruộng đất
Mấy chục năm ròng cái đói vẫn ghê ghê.
 
Nghèo chữ quá nên trọng người hay chữ
Bóp bụng nuôi con thành ông trạng, ông nghè
Sáu mươi tuổi, mẹ còn cấy hái
Ông trạng áo dài, ông trạng sống li quê!
Dẫu năm khó, không quên ngày giỗ chạp
Nhớ người xưa, con cháu quây quần
Vâng, có thể nông dân nhiều hủ tục
Nhưng không yêu được họ hàng, yêu chi nổi nhân dân!
Tôi đã thấy thằng Bờm và mẹ Đốp
Còn sống chung với Bá Kiến, Chí Phèo
Con gà mất, chửi ba ngày quyết liệt
Con gái gả chồng, cả xóm có trầu vui.
Tôi đã thấy đổ mồ hôi, sôi nước mắt
Từ hạt lúa gieo mầm đến cấy hái phơi phong
Dăm bảy tạ vài trăm nghìn một vụ
Bữa tiệc xoàng của mấy "sếp" là xong!
Có miếng ngon, nông dân dành đãi khách
Thờ Phật, thờ Tiên, thờ cả rắn, cả rồng
Cả tin quá, tin cả dì ghẻ ác
Sống chết mấy lần, nợ quyết trả bằng xong!
Nông dân sống lặng thầm như đất
Có thể hoang vu, có thể mùa màng
Xin chớ mất, chớ niềm tin sai lạc
Chín phần mười đất nước - nông dân!
                                                Nguyễn Sĩ Đại
            Phó trưởng Ban Văn hóa – Văn nghệ báo Nhân dân

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Bộ ảnh thú vị về sự khác biệt giữa phương Đông và phương Tây

(Dân trí) - Phương Đông và phương Tây vốn luôn chứa đựng nhiều quan niệm khác biệt. Bộ ảnh đồ họa dưới đây sẽ đề cập tới sự khác biệt đó dưới góc nhìn gắn gọn, hài hước, thú vị, đầy tính chiêm nghiệm.

Một nghệ sĩ trẻ người Trung Quốc có tên Yang Liu hiện đang sinh sống tại Đức vừa cho ra mắt bộ ảnh đồ họa có tên “East Meets West” (Đông Tây gặp gỡ). Bộ ảnh cho thấy sự khác biệt trong đời sống văn hóa - xã hội giữa phương Đông và phương Tây.
“Đông Tây gặp gỡ” thể hiện cách nhìn vừa chính xác vừa hài hước về sự khác biệt muôn thuở. Nghệ sĩ Yang Liu cho biết: “Những thông tin được thể hiện trong bộ ảnh đồ họa này mang ý nghĩa tương đối cá nhân, dựa trên những trải nghiệm và cảm nhận của bản thân tôi sau gần hai thập kỷ sinh sống ở Châu Âu”.
Dưới đây là bộ ảnh thú vị của nghệ sĩ Yang Liu:
Cách thể hiện ý kiến cá nhân 
Cách thể hiện ý kiến cá nhân: Người phương Tây quan trọng sự thẳng thắn. Người phương Đông đề cao sự khéo léo, mềm mỏng.
Phong cách sống 
Phong cách sống: Người phương Tây đề cao cái Tôi, năng lực cá nhân, cá tính riêng… Người phương Đông trân trọng cái Ta, con người phải luôn biết hòa nhập với môi trường xung quanh để tạo nên sự hài hòa.
Vấn đề đúng giờ 
Vấn đề đúng giờ: Đúng giờ là yếu tố rất được tôn trọng trong các cuộc gặp gỡ ở thế giới phương Tây. Người ta không cần đến sớm để thể hiện sự tôn trọng nhưng càng không nên đến muộn vì đó là hành động bất lịch sự. Người phương Đông thì khác, họ có thể xê dịch giờ hẹn đôi chút và điều đó không trở thành vấn đề lớn.
Cấp trên 
Cấp trên: Trong thế giới phương Tây, sếp cũng là người đi làm kiếm sống như nhân viên, chỉ có điều cấp bậc, tầm nhìn và lương bổng của sếp cao hơn một chút. Ở phương Đông, sếp được coi là “người khổng lồ”.
Các mối quan hệ và sự kết nối trong xã hội 
Các mối quan hệ và sự kết nối trong xã hội: Các mối quan hệ trong thế giới phương Tây không mang nặng tính “dắt dây” như trong xã hội phương Đông.
Cách thể hiện cảm xúc 
Cách thể hiện cảm xúc: Người phương Tây vui buồn đều thể hiện khá rõ ràng còn người phương Đông có thể “trong héo ngoài tươi”.
Văn hóa xếp hàng 
Văn hóa xếp hàng: Thực tế văn hóa xếp hàng đã dần hình thành tại nhiều nước phương Đông, đặc biệt tại các thành phố lớn. Tuy vậy, nhìn chung, nó chưa ăn sâu vào nếp sống của người phương Đông ở mọi lúc mọi nơi.
Nhìn nhận về bản thân 
Nhìn nhận về bản thân: Người phương Tây rất quan trọng cái Tôi, đề cao tính cá nhân trong một số khía cạnh của đời sống. Họ đòi hỏi những người xung quanh phải tôn trọng những gì thuộc về vấn đề cá nhân. Ở phương Đông, cái Tôi thường nhỏ bé, dễ bị khỏa lấp và việc quên đi cái Tôi được cho là một đức tính đáng khen ngợi.
Đường phố ngày cuối tuần 
Đường phố ngày cuối tuần: Những ngày cuối tuần, đường phố phương Tây thường vắng vẻ, họ không đổ ra đường mà thường có hai lựa chọn: một là ở nhà ngủ bù cho cả tuần lao động vất vả, hai là về miền quê vui chơi, hít thở không khí trong lành. Ở phương Đông, đặc biệt tại các thành phố lớn, người dân thường đổ ra đường, tới các khu vui chơi và trung tâm mua sắm để giải trí.
Tiệc tùng 
Tiệc tùng: Tại những bữa tiệc trang trọng, người phương Tây thích đứng thành nhóm nhỏ, rủ rỉ trò chuyện. Người phương Đông thích ngồi thành những nhóm lớn, trò chuyện ồn ào, đó được coi là biểu hiện của sự hào hứng, vui vẻ. Tiệc càng ồn càng chứng tỏ tổ chức thành công.
Tiếng ồn trong nhà hàng 
Tiếng ồn trong nhà hàng: Người phương Tây rất ngại việc nói to ở nơi đông người. Vì vậy, ở nơi công cộng như nhà hàng, quán ăn, họ nói nhỏ, chỉ đủ để người ngồi với mình nghe thấy. Ngay cả việc gọi nhân viên phục vụ cũng được thể hiện bằng ánh mắt và động tác tay. Người phương Đông khá vô tư trong việc này, họ có thể nói to, gọi nhau í ới ở nơi đông người.
Thức uống “lành mạnh” 
Thức uống “lành mạnh”: Ở phương Tây, nếu ai đó bị yếu bụng hoặc đau dạ dày, khi dùng bữa, họ sẽ uống nước ngọt có gas, trong khi đó, người phương Đông sẽ gọi trà hoặc nước khoáng.
Đi du lịch 
Đi du lịch: Người phương Tây đề cao việc quan sát và trải nghiệm thực tế trong suốt chuyến đi. Trong khi đó, đối với người phương Đông, việc lưu lại hình ảnh làm kỷ niệm trong từng chặng đường, từng địa điểm thăm quan là một việc quan trọng không kém.
Vẻ đẹp lý tưởng 
Vẻ đẹp lý tưởng: Người phương Tây thích da nâu, người phương Đông thích da trắng.
Trẻ em trong gia đình 
Trẻ em trong gia đình: Trẻ em ở phương Tây không được cả gia đình chăm lo, ưu ái như ở phương Đông. Trong gia đình phương Tây, trẻ em có vị trí ngang bằng như những thành viên khác trong nhà, cũng có quyền lợi và nghĩa vụ riêng. Ở phương Đông, em bé thường được coi là trung tâm thú vị của cả nhà và các thành viên sẽ xoay quanh “tâm điểm” này.
Giải quyết vấn đề 
Giải quyết vấn đề: Người phương Tây coi trọng kết quả sau cùng, vì vậy, họ sẵn sàng đương đầu với vấn đề cản trở, cốt sao đạt được mục tiêu nhanh nhất. Người phương Đông quan trọng quá trình thực hiện. Vốn không thích đối đầu, xung đột, nên người phương Đông có thể chấp nhận đi vòng một chút, tuy mất thời gian hơn nhưng vẫn đạt được kết quả sau cùng và không tổn hao quá nhiều sức lực.
Các bữa ăn trong ngày 
Các bữa ăn trong ngày: Người phương Tây thường ăn sáng vội vàng, ăn tối qua loa, thường dùng đồ ăn nhanh, bữa trưa vì vậy được coi là bữa ăn thư thái nhất trong ngày khi họ có thể rủ bạn bè ra tiệm dùng bữa. Người phương Đông đề cao tầm quan trọng của cả 3 bữa ăn trong ngày, họ thích sự nóng sốt. Ăn uống qua quýt theo kiểu “cơm đường cháo chợ” là điều không ai thích.
Phương tiện di chuyển 
Phương tiện di chuyển: Trước đây, khi người phương Tây coi ô tô là phương tiện di chuyển hiệu quả nhất, người phương Đông còn đi xe đạp. Giờ đây, người phương Tây lại coi xe đạp là phương tiện di chuyển “lành mạnh” nhất, trong khi đó, người phương Đông đã chuyển sang đi ô tô (nếu có điều kiện).
Cuộc sống của người già 
Cuộc sống của người già: Dạo chơi công viên ở phương Tây, bạn sẽ bắt gặp nhiều cụ già dắt thú cưng đi dạo. Ở phương Đông, bạn sẽ thấy các cụ già dắt cháu đi chơi.
Tắm táp 
Tắm táp: Người phương Tây thích tắm sáng rồi mới đi làm. Người phương Đông thích tắm tối trước khi đi ngủ.
Ẩm thực sành điệu 
Ẩm thực sành điệu: Người phương Tây sành điệu sẽ tìm tới các món Á. Người phương Đông “ăn chơi” sẽ tìm tới các món Âu.
Thời tiết và cảm xúc 
Thời tiết và cảm xúc: Người phương Tây thích nắng, ghét mưa. Họ đặc biệt yêu những ngày nắng (có lẽ vì thế mà họ thích da nâu). Người phương Đông thích cả mưa và nắng. Nắng mưa đối với người phương Đông đều có nét đẹp, nét thú vị riêng.
Đông Tây trong mắt nhau 
Đông Tây trong mắt nhau: Trong mắt người phương Tây, người phương Đông đặc trưng với nón lá, thích uống trà và ăn cơm. Người phương Đông ấn tượng với người phương Tây vì mũ nồi cao, xúc xích và bia.
Bích Ngọc
Theo Bored Panda

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Cảnh giác với thủ đoạn kinh doanh đa cấp biến tướng



(VTV News)- Bằng những biểu hiện lách luật và quy định về kinh doanh đa cấp, không ít công ty đa cấp đang hoạt động theo kiểu biến tướng, thậm chí là lừa đảo để trục lợi.
Một khi người tham gia đã bỏ tiền vào công ty kiểu này thì ít nhiều cũng sẽ gặp rủi ro. Để tìm hiểu rõ hơn mức độ sai phạm cũng như bản chất của mô hình kinh doanh này, phóng viên VTV đã có cuộc trao đổi nhanh với luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành công ty luật Basico. 


Cảnh giác với thủ đoạn kinh doanh đa cấp biến tướng

Thứ năm 28/11/2013 12:36
(VTV News)- Bằng những biểu hiện lách luật và quy định về kinh doanh đa cấp, không ít công ty đa cấp đang hoạt động theo kiểu biến tướng, thậm chí là lừa đảo để trục lợi.
Một khi người tham gia đã bỏ tiền vào công ty kiểu này thì ít nhiều cũng sẽ gặp rủi ro. Để tìm hiểu rõ hơn mức độ sai phạm cũng như bản chất của mô hình kinh doanh này, phóng viên VTV đã có cuộc trao đổi nhanh với luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành công ty luật Basico.
Mời quý vị khán giả xem video chi tiết.
- See more at: http://vtv.vn/Kinh-te/Canh-giac-voi-thu-doan-kinh-doanh-da-cap-bien-tuong/90365.vtv#sthash.4pVXrYOf.dpuf

Cảnh giác với thủ đoạn kinh doanh đa cấp biến tướng

Thứ năm 28/11/2013 12:36
(VTV News)- Bằng những biểu hiện lách luật và quy định về kinh doanh đa cấp, không ít công ty đa cấp đang hoạt động theo kiểu biến tướng, thậm chí là lừa đảo để trục lợi.
Một khi người tham gia đã bỏ tiền vào công ty kiểu này thì ít nhiều cũng sẽ gặp rủi ro. Để tìm hiểu rõ hơn mức độ sai phạm cũng như bản chất của mô hình kinh doanh này, phóng viên VTV đã có cuộc trao đổi nhanh với luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành công ty luật Basico.
Mời quý vị khán giả xem video chi tiết.
- See more at: http://vtv.vn/Kinh-te/Canh-giac-voi-thu-doan-kinh-doanh-da-cap-bien-tuong/90365.vtv#sthash.4pVXrYOf.dpuf

Cảnh giác với thủ đoạn kinh doanh đa cấp biến tướng

Thứ năm 28/11/2013 12:36
(VTV News)- Bằng những biểu hiện lách luật và quy định về kinh doanh đa cấp, không ít công ty đa cấp đang hoạt động theo kiểu biến tướng, thậm chí là lừa đảo để trục lợi.
Một khi người tham gia đã bỏ tiền vào công ty kiểu này thì ít nhiều cũng sẽ gặp rủi ro. Để tìm hiểu rõ hơn mức độ sai phạm cũng như bản chất của mô hình kinh doanh này, phóng viên VTV đã có cuộc trao đổi nhanh với luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành công ty luật Basico.
Mời quý vị khán giả xem video chi tiết.
- See more at: http://vtv.vn/Kinh-te/Canh-giac-voi-thu-doan-kinh-doanh-da-cap-bien-tuong/90365.vtv#sthash.4pVXrYOf.dpuf

Cảnh giác với thủ đoạn kinh doanh đa cấp biến tướng

Thứ năm 28/11/2013 12:36
(VTV News)- Bằng những biểu hiện lách luật và quy định về kinh doanh đa cấp, không ít công ty đa cấp đang hoạt động theo kiểu biến tướng, thậm chí là lừa đảo để trục lợi.
Một khi người tham gia đã bỏ tiền vào công ty kiểu này thì ít nhiều cũng sẽ gặp rủi ro. Để tìm hiểu rõ hơn mức độ sai phạm cũng như bản chất của mô hình kinh doanh này, phóng viên VTV đã có cuộc trao đổi nhanh với luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành công ty luật Basico.
Mời quý vị khán giả xem video chi tiết.
- See more at: http://vtv.vn/Kinh-te/Canh-giac-voi-thu-doan-kinh-doanh-da-cap-bien-tuong/90365.vtv#sthash.4pVXrYOf.dpuf

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Cô bé "xì-tyn" quàng khăn đỏ


Ngày xửa ngày xưa, vào năm 200..., ở một chỗ nào đấy có một cô bé có nick là Cô bé quàng khăn đỏ. Hàng ngày cô được mẹ uỷ nhiệm cho việc vào rừng hái nấm.

Một hôm trở giời, cô bé lại vác giỏ đi vào rừng. Tới bìa rừng, cô thấy thấp thoáng trong bụi cỏ hai cái tai trông như tai sói, vì đã đọc truyện cổ tích nên cô cảnh giác la lên:

- A, con sói kia. Tao nhìn thấy mày rồi nhá, đừng hòng ăn thịt tao.

Con sói lầm bầm bỏ đi. Tung tăng vừa đi vừa hái hoa ca hát, chẳng mấy chốc cô bé đã đi đến con suối giữa rừng. Nhưng kìa, lại có cái gì lấp ló sau tảng đá. Cô bé quàng khăn đỏ lại gào toáng lên:

- A, con sói kia. Tao nhìn thấy mày rồi nhá, đừng hòng ăn thịt tao.

Con sói hậm hực lắm nhưng vẫn phải bỏ đi. Rồi cô bé lại tiếp tục hành trình đi về vùng có nấm. Cảnh vật xung quanh chẳng có gì đặc biệt cho đến khi tới bên bờ suối trong rừng sâu. Lần này thì trong bụi nấm hương nõn nà, cô bé lại thấy cái lưng con sói đang lúi húi, nhấp nhổm. Cô bé theo thói quen lại gào tướng:

- A, con sói kia ...

Chưa dứt lời thì con sói nhảy bổ ra:

- Con cái nhà ai mà hư thế không biết. Việc gì đến mày mà mày cứ la toáng lên? Có để yên cho tao đi tè cái không thì bảo!

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

Kiều hùng - loài cây cảnh đầy vẻ quyến rủ







Với cái tên Hán Việt "kiều hùng" cũng đủ gây sự tò mò cho bất kỳ ai quan tâm đến cây cỏ, hoa lá. Tên gọi này nhằm nói lên đặc điểm hình thái một bộ phận của hoa, mà chính nó đã tạo nên sự hấp dẫn không chỉ đối với những người yêu thiên nhiên, cây cảnh, mà cả đối với ong bướm và một số loài côn trùng khác nữa. Trong một khoảnh khắc nào đó, người ngắm hoa lại bắt gặp những chú ong nhỏ lượn lờ tìm góc hạ cánh để hút mật hoa hay một vài chú bướm vàng nho nhỏ đang say sưa với bầu mật ngọt, vỗ nhẹ đôi cánh mềm bên chòm nhị đỏ. Chữ "kiều" mang nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có 4 nghĩa có thể dùng cho trường hợp này là: (1) những lông dài ở đuôi chim, (2) mềm mại đáng yêu, (3) duỗi dài ra, (4) vút cao; chữ "hùng" có nghĩa là nhị (nhị đực). Hoa của loài cây này mang rất nhiều nhị màu hồng hay đỏ vươn dài, vút cao tua tủa, mảnh mai, mềm mại, gặp gió thoảng nhẹ sẽ lung linh rất huyền ảo.



Thật ra, có hai loài tương cận: loài cao cây, có kiểu lá kép lông chim 2 lần, mỗi cuống thứ cấp mang 7-10 cặp lá chét nhỏ như lá me, nhị hoa màu hồng, nhạt dần về phía gốc, được gọi là kiều hùng đầu đỏ, chu anh hoa, hồng nhung cầu, tên khoa học là Calliandra haematocephala, tên tiếng Anh là Pink Powder Puff, Rose Cascade; loài thấp cây, có kiểu lá kép lông chim 2 lần, mỗi cuống thứ cấp mang 3-4 lá chét có chót khuyết lõm dạng như lá móng bò, lớn và dày hơn, sáng màu hơn, nhị hoa đỏ thắm, được gọi là kiều hùng chót lõm, ao hiệp hồng hợp hoan, hồng phấn phốc hoa, tên khoa học là Calliandra emarginata, tên tiếng Anh là Red Powder Puff, Blood Red Tassel Flower, Blood red Tassel Flower, Dwarf Powder Puff. Cả hai loài đều thuộc họ Trinh nữ - Mimosaceae (cũng có hệ thống phân loại xếp vào phân họ Trinh nữ - Mimosoideae, họ Đậu - Fabaceae).



Đây là hai loài cây cảnh có dáng dấp và hoa đẹp, rất được nhiều người ưa chuộng. Vốn xuất thân từ châu Mỹ (loài kiều hùng đầu đỏ có nguồn gốc ở Brasil, loài kiều hùng chót lõm có nguồn gốc ở Mexico), nhưng chúng được trồng khắp nơi trên thế giới, nhất là những vùng nhiệt đới, do chúng rất thích hợp với khí hậu nóng ẩm, trên nền đất màu mỡ, ẩm ướt nhưng thoát nước tốt và chỗ đủ ánh sáng. Cây dễ phát triển nhờ tái sinh bằng hạt. Hạt dễ nảy mầm và tỉ lệ nảy mầm cao. Do chiều cao cây không lớn, loài kiều hùng đầu đỏ thường chỉ cao 1-3 m, loài kiều hùng chót lõm thấp hơn (còn được gọi là kiều hùng lùn), hoa của chúng trổ trong tầm mắt người quan sát, nên chúng rất thích hợp cho việc trồng ở các vườn cảnh. Nhiều gia đình chọn chúng để tôn tạo cho một góc sân vườn hay hành lang hiên nhà. Một trong hai loài hoặc đôi khi cả hai, cũng thường được đưa trồng ở các sân vườn trường học, khuôn viên công sở, các điểm văn hóa, đình chùa... Với những nhị hoa hồng sắc sặc sỡ, kiểu dáng lạ mắt, nổi bật giữa vòm lá xanh tươi, bóng mượt, một vài cây kiều hùng tọa lạc một góc nào đó rất dễ gây sự chú ý, cuốn hút sự tò mò, lắm khi lại là yếu tố giữ chân khách. Vào những ngày nở hoa rộ, kiều hùng đã góp phần phá tan sự tĩnh mịch của không gian vườn tược. Nhờ thế, cảnh vật bớt phần buồn tẻ.



Ở Huế, kiều hùng đầu đỏ được trồng khá nhiều nơi, từ đồng bằng lên đến miền núi. Riêng loài kiều hùng chót lõm còn hạn chế phát triển, ít phổ biến hơn kiều hùng đầu đỏ. Nhìn chung, cả hai loài kiều hùng đều có hoa sặc sỡ, lạ mắt, cây có kích thước vừa phải, cành nhánh mảnh mai, mềm mại, lá đẹp, dễ nhân giống, dễ cơ cấu vào các không gian nhỏ. Cây ít bị sâu bệnh hại, không đòi hỏi phải chăm sóc nhiều, thích hợp với việc đưa trồng bất kỳ đâu đủ sáng, đủ ẩm, đất không quá trơ cằn.


Đỗ Xuân Cẩm

Bằng đại học song ngữ không chứng thực ở Phường

Theo Thông tư 03/2008/TT-BTP, từ ngày 5/3/2012, Phòng Tư pháp cấp quận, huyện là cơ quan duy nhất có thẩm quyền chứng thực các giấy tờ, văn bản song ngữ.


Theo Điều 5 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký như sau:

1. Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là Phòng Tư pháp cấp huyện) có thẩm quyền và trách nhiệm:

a) Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài;

b) Chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài; chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài;

Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện thực hiện chứng thực các việc theo quy định tại khoản 1 Điều này và đóng dấu của Phòng Tư pháp.

2. UBND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã) có thẩm quyền và trách nhiệm:

a) Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt;

b) Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt.

Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND cấp xã thực hiện chứng thực các việc theo quy định tại khoản 2 Điều này và đóng dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã...

Bằng đại học song ngữ không chứng thực ở Phường

Ảnh minh họa

Theo Điều 1 Thông tư 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ, với các giấy tờ, văn bản có tính chất song ngữ (ví dụ: hộ chiếu của công dân Việt Nam, chứng chỉ tốt nghiệp của các trường đại học Việt Nam liên kết với trường đại học của nước ngoài... trong đó có ghi đầy đủ bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài) người yêu cầu chứng thực được lựa chọn chứng thực tại Phòng Tư pháp cấp huyện hoặc UBND cấp xã.

Như vậy, theo quy định của Nghị định 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 và Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008, người yêu cầu chứng thực giấy tờ, văn bằng song ngữ được quyền lựa chọn chứng thực tại Phòng Tư pháp cấp quận, huyện hoặc UBND cấp xã, phường.

Tuy nhiên, Nghị định số 04/2012/NĐ-CP ngày 20/01/2012 có hiệu lực từ ngày 05/3/2012 sửa đổi, bổ sung Điều 5 của Nghị định 79/2007/NĐ-CP, Phòng Tư pháp cấp huyện được bổ sung thẩm quyền chứng thực cụ thể như sau:

a) Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và giấy tờ, văn bản song ngữ.

b) Chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt hoặc từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài; chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và giấy tờ, văn bản song ngữ.

c) Chứng thực các việc quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP.

Như vậy, kể từ ngày 5/3/2012, Phòng Tư pháp cấp huyện là cơ quan duy nhất có thẩm quyền chứng thực các giấy tờ, văn bản song ngữ. Do đó, trong trường hợp bạn xin chứng thực văn bản song ngữ tại UBND phường sau ngày 5/3/2012, việc từ chối chứng thực của cán bộ tư pháp phường là đúng theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bạn xin chứng thực văn bản song ngữ tại UBND phường trước ngày Nghị định số 04/2012/NĐ-CP có hiệu lực mà bị cán bộ tư pháp từ chối, bạn có thể khiếu nại hành vi của người đó tới UBND phường trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày bạn bị từ chối chứng thực để được giải quyết.

Thạc sĩ, Luật sưPhạm Thanh Bình ( Công ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội)

Theo Vnexpress.vn

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Chuyện bắt phi công

(Nguyễn Quang Lập)
Hồi chiến tranh dân Quảng Bình mê nhất hai thứ, một là đi kiếm dù, hai là bắt phi công. Dù có hai loại, dù pháo sáng là dù trắng và dù phi công là dù đỏ. Dù pháo sáng là chủ yếu, không đêm nào máy bay Mỹ không thả pháo sáng, vì thế không đêm nào dân Quảng Bình không nhặt được dù. Thỉnh thoảng vẫn nhặt được dù phi công, dù này quí hiếm vô cùng, ai nhặt được dù này còn mừng hơn bắt được vàng. Thật là như thế, một chỉ vàng hồi này chỉ 80 đồng, trong khi một cái dù đỏ phi công có thể bán 300 đồng, có khi lên tới 500 đồng.


            Dù là thứ vải rất bền và đắc dụng, làm vỏ chăn cũng tốt, may áo quần cũng hay, đặc biệt làm rèm che, làm  phông màn thì quá đẹp. Đám cưới nào có ba bốn cái dù vừa làm mái che rạp vừa làm phông màn gọi là đám cưới sang. Thà rằng cắt tóc đi tu/ cưới xin không có tấm dù ra chi. Những chiếc dù trọn vẹn rất hiếm, thường khi có một chiếc dù rơi xuống thì cả mấy trăm người tay dao tay câu liêm nhào tới xâu xé, may lắm mới kiếm được một rẻo. Có khi chẳng kiếm được rẻo nào, còn đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Những chiếc dù trọn vẹn thường nhặt nơi rừng rú xa xôi, hoặc vận đỏ rơi trúng đầu, nửa đêm khuya khoắt thiên hạ ngủ cả, chiếc dù rơi trúng nhà mình.

            Bắt phi công không được dân chúng hồ hởi phấn khởi như đi kiếm dù nhưng cũng rất hấp dẫn. Ai bắt được phi công sẽ được huyện đội thưởng một con bò, lại được giấy khen bằng khen, được đi báo cáo thành tích, được báo tỉnh chụp ảnh đưa tin rất oách. Mình nhớ anh cu Cá ở Ba Đồn ở quê mình là người dân đầu tiên của tỉnh Quảng Bình bắt được phi công. Thường khi máy bay cháy, phi công Mỹ nhảy dù thì dân quân, bộ đội đã bố trí sẵn để chụp cổ chúng rồi, dân khó lòng “ tranh phần” với dân quân, bộ đội.

 Nhưng thỉnh thoảng phi công nhảy dù trong đêm không ai nhìn thấy, hoặc gió thổi dù bay lạc hướng phán đoán của dân quân, bộ đội thì khi đó dân mới bắt được. Anh cu Cá do đoán được hướng dù rơi mà bắt được phi công. Chuyện anh cu Cá bắt phi công mình đã kể rồi, không kể nữa.
 Mình nhớ năm 1967, ở làng Thuận Bài có một anh chuyên nghề mò cua bắt cá ở Sông Gianh, tên gì không nhớ nữa. Nhà anh nghèo, vì nghèo quá mà không sao cưới được vợ. Yêu nhau ba bốn năm rồi nhưng hễ đặt vấn đề cưới xin là tắc tị. Đừng nói mổ heo mổ bò, chỉ cần sắm cái giường cưới  cho tử tế nhà anh cũng không có khả năng. Anh chầu chực bắt phi công để kiếm một con bò cưới vợ nhưng hai ba năm trời không cách sao bắt được.

 Một hôm bộ đội pháo cao xạ bảo vệ cảng Gianh bắn cháy một chiếc F4H, thằng phi công nhảy dù rơi tõm xuống giữa sông Gianh. Một cuộc tranh giành phi công giữa bộ đội, dân quân với máy bay Mỹ xảy ra rất ác liệt suốt cả buổi chiều. Máy bay Mỹ mười mấy chiếc thi nhau quần nát một vùng rộng lớn bốn xung quanh sông Gianh, rồi đem máy bay trực thăng từ Hạm đội 7 bay vào nhằm trục vớt thằng phi công. Trực thăng bay thấp thế nhưng không ai làm gì được vì quanh nó có cả đàn phản lực vừa bắn rốc két vừa thả bom bảo vệ.

             Không phải một chiếc trực thăng mà ba chiếc, một chiếc trục vớt phi công, hai chiếc bay kèm hai bên, hễ thấy  ai đưa thuyền hay bơi ra sông là chúng bắn như như vãi đạn. Mọi người tính bó tay, để mặc cho thằng phi công được cứu thoát. Khi đó anh ở trong làng Thuận  Bài vừa bò vừa chạy ra, nhảy xuống sông, lặn chừng ba hơi thì đến giữa dòng. Khi  chiếc trực thăng thả thang dây xuống, thằng phi công vừa túm lấy thì anh này cũng vừa nhô lên, túm lưng quần thằng phi công kéo xuống.

 Anh vừa bơi vừa kéo thằng phi công vào bờ. Mấy chiếc trực thăng đều thấy cả nhưng không dám bắn, bắn thì chết luôn thằng phi công. Anh bắt thằng phi công giải đi, còn tụt quần vỗ đít chĩa về phía mấy chiếc trực thăng, nói vơ Đế quốc Mỹ…khu ( đít) tau đây nời.  Nghe nói huyện đội xét anh này  có công lớn, thưởng  cho anh hai con bò với ba trăm đồng, chẳng những đủ tiền cưới vợ mà còn làm được mái nhà tranh. Nhà báo tìm đến hỏi anh, nói vì sao đồng chí vượt qua lửa đạn để bắt phi công Mỹ. Anh nói bá cáo vì tui cần tiền cưới vợ. Nhà báo “ mớm cung”, nói khi đó lòng căm của đồng chí rực cháy phải không. Anh nhăn răng cười, nói bá cáo tui quen biết chi hắn mà căm thù.

 Hồi sơ tán ở làng Đông, nhà mình ở đầu làng, từ đấy cứ đi ngược lên phía Tây Bắc, băng qua rặng trâm bầu là gặp một cái bàu sen cực rộng, rộng đến nỗi đứng bên này bờ cứ tưởng mặt trời chui lên từ bờ bên kia. Bên kia bàu là một xóm nhỏ, có mấy túp lều tranh cất tạm, núp dưới rặng trâm bầu, xưa gọi là Xóm Bàu, bây giờ ai cũng gọi là Xóm gái hoang.  Ba người đàn bà ở đấy không phải gái chửa hoang, họ là những người đàn bà ế chồng. Một chị tên là Đóc Xấu, cao quá không ai lấy. Một chị tên Mai bị thương ở cổ, tụt lưỡi không nói được, nói gì cũng dá da da… dá da da, thành thử đàn ông ai cũng chê. Một chị tên Cà bị tây hiếp, chán đời không thèm lấy ai nữa, chị là người lớn tuổi nhất, năm 1968 đã hơn bốn mươi tuổi, vẫn gọi là Mụ Cà. Cả ba kéo nhau ra đây dựng nhà lập trại ăn ở với nhau như chị em, vô cùng thân thiết.

Một đêm, bộ đội dưới cảng Gianh bắn trúng máy bay, chiếc F105 cháy rùng rùng, đâm đầu xuống chân núi sau làng Trung Thuần, dân các làng sung sướng reo vang. Ba chị cùng nhảy cà tẩng, lấy soong nồi gõ ầm ĩ. Chợt nghe cái bụp phía bàu sen, ngó ra thì thấy một cái dù đỏ xoè rộng trên bàu. Ba chị sướng rêm, lội ra ngay. May tối hôm đó hình như mọi người mải xem máy bay cháy, không để ý, chẳng thấy có ai chạy ra, ba chị lần đầu được một cái dù trọn vẹn, lại dù đỏ, sướng ngây ngất. Cuốn xong dù thì thấy một cái đầu nhô lên, ba chị rú lên chực bỏ chạy. Cái đầu nói rốp rít xốp xít, ba chị nhìn lại, hoá ra là thằng phi công Mỹ, họ cứ đứng trơ nhìn  nhau.

 Mụ Cà sực tỉnh chĩa dao vào thằng Mỹ, nói dơ tay lên. Thằng Mỹ nói rốp rít xốp xít. Mụ Cà dơ dao đe, nói cha tổ mi, tau nói mi dơ tay lên. Thằng Mỹ cứ đứng trơ, nói rốp rít xốp xít. Chị Đóc Xấu nói bộ đội dặn khi mô bắt phi công Mỹ phải nói bút dò nó mới dơ tay lên. Thực ra bộ đội dặn phải nói put your hands up nhưng chị Đóc Xấu quên, hi hi. Mụ Cà nói mi nói đi, chị Đóc Xấu hô to bút dò bút dò! Mặt thằng Mỹ đực như ngỗng ỉa. Chị Mai thấy thế liền vung hai tay lên, nói dá da da… dá da da! Thằng Mỹ dơ hai tay lên liền. Mụ Cà, chị Đóc Xấu trố mắt ngạc nhiên, nói con Mai nói chi mình  cũng không hiểu mà thằng Mỹ hiểu liền. Mụ Cà chỉ tay vào xóm, trợn mắt với thằng Mỹ, quát dá da da … dá da da! Thằng Mỹ vội vàng đi vào xóm liền. Mụ Cà cười he he he, nói tưởng răng, tiếng Mỹ dễ òm!

Ba chị được huyện đội thưởng một con bò, họ dắt về làng mổ bò khao cả làng. Làng xóm xúm lại khen ngợi, nói giỏi hè giỏi hè. Mụ Cà vênh mặt lên, nói phải biết tiếng Mỹ mới bắt được phi công, nỏ phải chuyện chơi. Làng xóm xúm lại hỏi, nói tiếng Mỹ ra răng nói nghe coi. Mụ Cà nói è he dễ òm, dá da da… dá da da. He he.

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

MA CÔNG CHỨC

(FAXUCA)
Công Nông
- Bác Nông này, dân ta cứ hay ta thán thế, nhưng em thấy công chức nước ta thuộc loại mẫu mực nhất thế giới.
- Xì...
- Thì bác tính nhé. Đầu vào bỏ ra hàng trăm triệu để thi công chức, đậu rồi thì hưởng lương tháng vài ba triệu để phụng sự dân như đầy tớ.
- Xì...Bằng chứng đâu mà nói là công chức phụng sự dân rất tốt?
- Ô hay, cơ quan nào cũng gần 100% công chức là lao động tiên tiến, 30% chiến sỹ thi đua cơ sở, rồi chiến sỹ thi đua cấp tỉnh, rồi bằng khen, huân chương...Không tốt là gì?
- Xì...vớ vẩn.
- Nhưng quả này mới là vô đối này. Công chức ta không chỉ khi làm việc thì hy sinh, cung cúc tận tụy phục vụ nhân dân, mà đến khi chết vẫn làm... ma gương mẫu cho dân noi gương.
- Ma nào chả là ma...
- Rứa là bác lại lạc hậu rồi. Em hỏi bác, giả sử bây giờ bác chết nhé...
- Chém mồm chú đi, nói thế ma theo mồm thì tớ chết thật à?
- Ấy là em chỉ ví dụ thôi mà, trông bác phong độ thế thì còn lâu mới được   tiêu tiền âm. Ý em nói là một người chết thì có mấy vòng hoa?
- Cái đó là tùy người sống họ đi viếng chứ, có đám hàng chục, hàng trăm vòng, chưa kể trướng, có đám không...
- Như thế là bao nhiêu vòng hoa cũng được, đúng không?
- Đúng thế.
- Ấy thế mà khi công chức mất thì chỉ được phép có tối đa 7 vòng hoa viếng thôi. Nắp quan tài cũng không được lắp kính nữa. Em không bịa đâu nha, Nghị định 105 của Chính phủ vừa quy định như thế đấy.
- Ô hay, thế ngộ nhỡ có người tốt với dân khi mất đi dân người ta thương tiếc mang vòng hoa đến viếng, mà đã có đủ bảy vòng rồi thì sao?
- Thì phải nói họ mang về...
- Mang về đâu? Để làm gì?
- Bác cứ hỏi khó!
- Nói thật với chú, không hiểu sao dạo này người ta nghĩ ra lắm thứ luật lệ trên trời thế không biết. Hết ngực lép không được lái xe, đến căn cước ghi tên bố mẹ, rồi thịt lợn không được để quá tám giờ, rồi cấm “quốc lủi”, bây giờ lại “văn” ra cái...ma công chức này. Công chức ngày càng hư hỏng thì không lo nghĩ ra cách quản lý, sử dụng công chức làm việc cho tốt, lại cứ đi vẽ ra chuyện đám ma mấy vòng hoa.
- Thì hôm trước em đã nói rồi, mấy tay vẽ ra cái nghị định cấm “quốc lủi” là do chỉ biết uống rượu tây, chưa nhậu “quốc lủi” bao giờ...
- Đúng thế. Nhưng ý chú là sao?
- Ý em là mấy vị soạn ra cái nghị định “ma công chức” này cũng chưa ...chết, nên không có... kinh nghiệm. Chi bằng ta cho họ về thổi kèn đám ma một thời gian,
- Không được.
- Tại sao ạ?
- Thổi kèn đám ma cũng phải có phách, có nhịp, có giai điệu, tiết tấu. Thổi trời ơi đất hỡi thế này ma nào mà...chết được!

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

"Ai cho tiền thì bảo vệ người ấy"

Còn chức năng đứng về người lao động lại càng khó tròn vai, bởi "ăn cây nào rào cây ấy", ai cho tiền hoạt động thì bảo vệ người ấy; Công đoàn thời kỳ Đổi mới chưa bao giờ đứng ra tổ chức đình công để đấu tranh quyết liệt quyền lợi cho công nhân.

BTA có rồi, nhưng Quy chế ưu đãi phổ cập (GSP)[1] không thành hiện thực có căn nguyên từ Hiến pháp.
1. Một lý do được chỉ ra là quyền tự do gia nhập hội đã có, nhưng quyền tự do lập hội cho người lao động lại chưa có.
Trong quá trình đàm phán Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA), đoàn đàm phán đã nỗ lực yêu cầu Hoa Kỳ dành cho phía VN Quy chế ưu đãi phổ cập (GSP). Quy chế này nhằm khuyến khích sự phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển bằng cách ưu đãi miễn thuế nhập khẩu 5.000 mặt hàng[2] (trong đó chủ yếu là các hàng thủ công nghiệp, mây tre, cói ngô...).
Ban đầu, phía Hoa Kỳ không chấp nhận, vì quy chế GSP đòi hỏi quốc gia hưởng quy chế GSP phải bảo đảm cho người lao động, tầng lớp công nhân quyền tự do lập hội, bao gồm quyền tự do lập công đoàn.
Công đoàn, quyền tự do lập hội, công nhân, đình công, quyền lợi người lao động
Theo báo Lao động, từ năm 1995 đến 7/2013, có hơn 5.000 cuộc đình công, có cuộc huy động đến 10.000 NLĐ, không có cuộc nào do Công Đoàn lãnh đạo. Ảnh minh họa
Quyền tự do lập công đoàn, giúp "công nhân, người lao động tụ tập với nhau, tự lập hội để nói chuyện với giới chủ", để giúp họ tự bảo vệ mình, mà không phải trông chờ từ nhà nước. Theo ông Nguyễn Đình Lương - nguyên Trưởng đoàn đàm phán BTA, quyền tự do thành lập công đoàn là một trong những chuẩn mực quy định của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), mà Việt Nam là một thành viên[3] .
Trước nỗ lực của phía Việt Nam, cuối cùng phía Hoa Kỳ ghi nhận vào BTA: "phía Hoa Kỳ sẽ xem xét dành GSP cho Việt Nam". Thế nhưng, "thắng lợi" của nỗ lực này không có cơ hội thành hiện thực. Vì phía Hoa Kỳ chưa xem xét GSP chừng nào quyền tự do lập công đoàn của người lao động Việt Nam chưa được bảo đảm, chừng nào Điều 10 Hiến pháp còn duy trì vai trò độc tôn của Công đoàn Lao động Việt Nam (viết hoa, số ít).
Sự độc tôn của công đoàn như vậy là đã điều chỉnh quyền lập hội, lập công đoàn của người lao động theo "cơ chế mậu dịch" của thời kỳ bao cấp. Nghĩa là chỉ có quyền "gia nhập, hoặc không gia nhập, đóng phí hay không đóng phí" mà thôi, chứ không còn quyền chọn lựa ai đó đại diện cho mình.
Ngắn gọn, người lao động không có quyền lập công đoàn, mà chỉ có quyền gia nhập một tổ chức mà Điều 10 Hiến pháp đã thiết kế sẵn.
Người lao động tưởng như đã thoát được "gạo mậu dịch" song còn những thứ "mậu dịch, bao cấp" khác thì có lẽ vẫn chưa thể.
2. Duy trì tính chất "á nhà nước" của Công đoàn nhằm giải quyết những vấn đề gì gì?
Hiện nay, Công đoàn Lao động Việt Nam hưởng quy chế rất đặc biệt, quy chế á nhà nước.
Theo quy chế này, Công đoàn Lao động đứng về phía nhà nước, giúp nhà nước quản lý người lao động, thực hiện một số hành động nhân danh quyền lực nhà nước (ban hành thông tư liên tịch), đặc biệt hưởng ngân sách, giống như một cơ quan nhà nước.
Dùng ngân sách như cơ quan nhà nước, nhưng lại không phải là cơ quan nhà nước. Bởi ở mặt khác, tổ chức này lại khoác chiếc áo của một tổ chức xã hội, nên không cần được sự ủy thác của toàn dân thông qua bầu cử phổ thông, không có nghĩa vụ trả lời chất vấn trước Quốc hội, không phải chịu trách nhiệm trước những người đóng thuế.
3. Chức năng, vai trò thay đổi qua từng thời kỳ lịch sử
Trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh, Công đoàn đã có công lao lớn giúp Đảng giành được chính quyền, giúp công nhân đấu tránh chống lại sự bóc lột của giới chủ, đặc biệt là chống lại giới chủ người Pháp. Điều đó cần được tri ân.
Bước sang thời kỳ bao cấp, khái niệm "giới chủ" không còn, mà người sử dụng lao động chính là chính quyền dưới hình thức hợp tác xã, xí nghiệp nhà nước, cơ quan nhà nước. Nên Công đoàn thời kỳ này thay đổi chức năng, không còn nhiệm vụ đấu tranh chống lại người sử dụng lao động, mà phải cổ vũ, ủng hộ người sử dụng lao động, trở thành cánh tay nối dài giúp nhà nước quản lý người lao động.
Bước sang thời kỳ đổi mới, "giới chủ" tái xuất hiện, nhưng chức năng, vị thế của Công đoàn vẫn được tiếp tục duy trì như thời kỳ bao cấp. Công đoàn mới không được quyền thiết lập, công đoàn truyền thống không ra tay giúp công nhân. Những xung đột với giới chủ không còn phương thức hòa bình để giải quyết, công nhân đi đến đình công tự phát ở Bình Dương, Hải Phòng trong những năm 2008-2009, có nơi leo thang đến đập phá nhà máy giống như thời Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Tính chất á nhà nước, làm cho chức năng quản lý nhà nước của Công đoàn thiếu chính danh, thiếu trách niệm giải trình trước Quốc hội và toàn dân. Còn chức năng đứng về người lao động lại càng khó tròn vai, bởi "ăn cây nào rào cây ấy", ai cho tiền hoạt động thì bảo vệ người ấy; Công đoàn thời kỳ Đổi mới chưa bao giờ đứng ra tổ chức đình công để đấu tranh quyết liệt quyền lợi cho công nhân.
Duy trì vai trò độc tôn, hạn chế quyền tự do lập công đoàn của người lao động không chỉ làm ảnh hưởng quyền lợi của tầng lớp thợ thuyền, mà về mặt đối ngoại lại cản trở hội nhập quốc tế.
Trước thềm đàm phán TPP, nhân dịp sửa đổi Hiến pháp, chúng ta nên xem xét cải tổ cơ chế "bao cấp bảo vệ người lao động", cải tổ hệ thống "cửa hàng mậu dịch bốn cấp" (Công đoàn ở TW, tỉnh, huyện, cơ sở). Sao cho những người lao động thực sự được bảo vệ quyền lợi chính đáng.
TS Võ Trí Hảo (Khoa Luật, Đại học Kinh tế TP.HCM)

Ông Nguyễn Bá Thanh bút phê được bao nhiêu hồ sơ xin việc?

(Dân trí) - Tại buổi tiếp xúc cử tri quận Sơn Trà chiều 23.9, sau khi nghe bà Lê Thị Giỏi ở phường An Hải Bắc trình bày chuyện con của bà là Phan Thị Trang Nhung, tốt nghiệp đại học và thạc sĩ ngành Sư phạm Văn loại giỏi, nhưng không xin được việc phải làm công nhân, ông Nguyễn Bá thanh đã hẹn gặp bà Giỏi để xem xét hồ sơ.

(Minh họa: Ngọc Diệp)
 (Minh họa: Ngọc Diệp)


Ông  Nguyễn Bá Thanh đã bút phê vào hồ sơ của Phan Thị Trang Nhung để xin việc cho nữ thạc sĩ này. Chắc chắn với uy tín của ông, thạc sĩ Nhung sẽ có việc làm đúng chuyên ngành được đào tạo.

Tấm lòng của ông Nguyễn Bá Thanh với người dân rất đáng được ghi nhận, cách xử lý nhanh gọn của ông cũng rất đáng nể.

Thế nhưng, vấn đề đặt ra là ông Thanh bút phê được bao nhiêu hồ sơ cho hàng vạn trường hợp như Phan Thị Trang Nhung. Chỉ riêng một doanh nghiệp ở Đà Nẵng thôi, ông Thanh cũng bó tay. Ví dụ,  báo Lao Động số ra ngày  6.3.2013 có bài “Nghịch lý nguồn nhân lực ở Đà Nẵng: Cả ngàn cử nhân làm công nhân tại một doanh nghiệp”.

Bài báo nêu vụ thể, Công ty TNHH điện tử Poster Đà Nẵng có 16.000 công nhân, nhưng có đến cả ngàn người có bằng cử nhân, kỹ sư. Cá biệt, có công nhân có cả 2 bằng cử nhân, hoặc cả hai vợ chồng đều là “ông bà cử” làm công nhân tại công ty.
Mới đây, La Văn Ngọ, người dân tộc Thái, quê Nghệ An, gia đình nghèo, nhưng bạn đã vượt qua khó khăn để đạt thành tích thủ khoa Đại học Giao thông Vận tải. Nhưng khổ thân cho chàng tân thủ khoa, vác đơn đi xin việc khắp nơi nhưng không ai nhận. Hay tin, Bộ trưởng Đinh La Thăng đã “trải thảm đỏ” đón La Văn Ngọ về làm việc tại Viện Khoa học Công nghệ của Bộ GTVT. Có mấy ai được may mắn như La Văn Ngọ?
Cho dù việc làm các nhà chính trị có phần tạo dựng hình ảnh cá nhân thì chút tấm lòng đó cũng quý hóa lắm. Bởi vì, chẳng có mấy người làm được những việc như thế. Hoặc là họ thừa sức làm được, nhưng tấm lòng không đủ rộng mở để khai phóng cho cái trí nghĩ ra cách làm. Cám ơn ông Thanh, ông Thăng...
Có điều, với nhà chính trị tâm rộng tầm cao, đóng góp của họ không phải việc làm của một nhà từ thiện hay lòng hảo tâm của một doanh nhân, mà tạo ra một quốc gia giàu mạnh, có đủ việc làm cho người dân, hay ít nhất là những người được đào tạo có bằng cấp chuyên môn thì phải có việc làm.
Ông Nguyễn Bá Thanh, ông Đinh La Thăng giải quyết cho hai trường hợp thất nghiệp nhưng có thể họ rất đau lòng. Bởi vì tại sao để cho nhiều người có bằng cấp phải thất nghiệp như vậy, trong đó có trách nhiệm của cá nhân họ.
Mong rằng, họ đau lòng như vậy hơn là vui cười thỏa mãn vì mình giải quyết việc làm cho một người dân.

Lê Chân Nhân

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

CHO TÔI THỞ TÝ



(FAXUCA) Ông giám đốc cơ quan nọ bị bệnh hiểm nghèo, đang phải thở ô xy trong bệnh viện. Phó giám đốc thường trực dẫn đầu đoàn cán bộ cơ quan đến thăm. Với bộ mặt thểu não, lo lắng, phó giám đốc nghẹn ngào nói: "Anh mới đi viện mấy ngày mà cả cơ quan nháo nhác như gà mất mẹ. Bọn em hết sức lo lắng, chỉ mong sao anh sớm bình phục về tiếp tục lãnh đạo cơ quan...". Ông giám đốc khó khăn lắm mới nói được mấy câu, giọng đứt quãng: "Cá...m ơ ... n đồng...chí, nhưng xin đồng chí thả tay ra cho tôi thở một tý". Té ra nãy giờ phó giám đốc miệng nói, nhưng tay thì bóp chặt ống tuy ô truyền ô xy!

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Bí thư xã chửi dân 'ngu" bị kiểm điểm, phải xin lỗi dân

Trước những bức xúc của dư luận, huyện ủy Phổ Yên (Thái Nguyên) đã có văn bản yêu cầu Bí thư xã Thành Công làm kiểm điểm và giải trình vụ việc chửi dân "ngu" và "láo".


bí thư xã, xin lỗi dân, kiểm điểm, chửi dân ngu, bố láo
Ông Dương Đình Sáu - Bí thư Đảng ủy xã Thành Công. Ảnh: Tri thức trẻ

Những ngày qua, dư luận tỏ ra bất bình thước hành động chửi dân ngu và láo của ông Dương Văn Sáu - Bí thư xã Thành Công, huyện Phổ Yên, Thái Nguyên. 

Huyện ủy Phổ Yên vừa yêu cầu các cơ quan chức năng rà soát bộ máy của xã Thành Công và các cơ quan liên quan. 

Yêu cầu Bí thư Đảng ủy xã Thành Công báo cáo, tự kiểm điểm và giải trình vụ việc với Thường trực Huyện ủy. 

Trước đó, ngày 12/9, Huyện ủy Phổ Yên nhận được báo cáo đề nghị của Chi bộ Phú Đạt thuộc Đảng bộ xã Thành Công đề nghị làm rõ vụ việc, nếu có hành động như vậy bí thư xã phải xin lỗi dân. Thường trực Huyện ủy đã yêu cầu Chi bộ Phú Đạt phải làm rõ vụ việc trên với người dân trong xã. 

Được biết, ngày 30/1/2013, Dự án nghĩa trang "Công viên Thiên đường xanh" đã được UBND tỉnh Thái Nguyên phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 và có tổng diện tích 185 ha nằm trên 3 xóm Ao Sen, Hạ Đạt và Vạn Phú (xã Thành Công). 

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, dự án đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía người dân 3 xóm thuộc dự án nói trên. 

Theo đơn thư tố cáo của người dân, họ phản đối mạnh mẽ dự án là do chính quyền UBND xã Thành Công đã "vi phạm quy chế dân chủ", "Bí thư xã lập phe cánh", "mập mờ, nhiều khuất tất trong phổ biến, tuyên truyền về dự án". 

Trong lần trả lời báo chí về các thông tin liên quan đến đơn tố cáo của người dân hồi cuối tháng 8/2013, ông Dương Đình Sáu, Bí thư Đảng ủy xã Thành Công luôn tìm cách né tránh vụ việc trên. 

Không những thế, ông này còn có những lời lẽ miệt thị người dân, nói dân "ngu, kém hiểu biết", "lạc hậu và bố láo" nên mới... làm đơn tố cáo. 

Diệp Vy(tổng hợp)

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

SỰ KIỆN NÔNG DÂN THÁI BÌNH NỔI DẬY NĂM 1997

NTT – Trong bài “Bạo lực đỏ” tôi có nhắc tới sự kiện nông dân tỉnhThái Bình nổi dậy chống lại lãnh đạo chính quyền vi phạm luật đất đai và tham nhũng. Sự kiện này dù được nghe “truyền miệng” nhiều nhưng lại ít thấy có cuốn sách nào, tờ báo chính thống nào nói một cách đầy đủ và hệ thống. Mới đây TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH chỉ đạo cho ra đời cuốn TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH do NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 2010 đã có 4 mục nói về sự kiện này.
Cuốn sách, theo lời giới thiệu của ông Bùi Tiến Dũng – Bí thư tỉnh ủy – Chủ tịch HĐND tỉnh giới thiệu, “gồm 5.000 mục từ với hơn 1.300 trang”, đáng được xem là một công trình từ điển bách khoa về Thái Bình.
Không ngại va chạm để nói đến những sự kiện lịch sử có tính bước ngoặt, lần đầu tiên một ấn phẩm, một công trình đồ sộ do Tỉnh Thái Bình xuất bản chính thức đưa Sự kiện Thái Bình 1997 vào sách dưới những đề mục nhỏ, như một sự công nhận lịch sử mà không hề chối bỏ.
Cuốn TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH là sách tra cứu và không phải ai cũng có thể sở hữu vì số bản in không nhiều. Đối với sự kiện Thái Bình năm 1997, có 4 đề mục nhỏ là: Vụ Quỳnh Hoa, Vụ Quỳnh Hội, Vụ Quỳnh Mỹ và Vụ Thái Thịnh.
“Khi nông dân ra phố” xin trân trọng giới thiệu lại toàn bộ 4 vụ này trong cuôn TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH để chúng ta cùng đọc và suy ngẫm.

1. Vụ Quỳnh Hoa

“Điểm nóng số 1 của tỉnh. Chiều ngày 16/6/1997, khoảng 300 người dân xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ đã bắt giữ Bí thư Đảng ủy, chủ tịch UBND xã và Phó ban tài chính xã dong lên huyện, đi bộ trên quãng đường 7km dưới trời mưa không cho đội mũ nón, vừa đi vừa lăng mạ, chử bới, đánh đập. UBND huyện cứ người ra tiếp, trong cuộc đối thoại, yêu sách của dân tập trung vào việc đòi xử lý cán bộ xã tham nhũng, tiêu cực; huyện yêu cầu trả tự do cho cán bộ xã và hứa cử đoàn thanh tra về làm rõ, nếu cán bộ vi phạm sẽ xử lý.
Sau đó, tại xã Quỳnh Hoa vẫn tiếp tục tiếp diễn tình trạng lăng mạ, vây ép đòi cán bộ xã phải ký vào những văn bản do một số người thảo sẵn. Ngày 12/9/1997, 34 cán bộ xã Quỳnh Hoa gồm Đảng ủy, UBND, Công an, xã đội, các đoàn thể HTX nông nghiệp và 6/10 trưởng xóm mang 6 con dấu và đơn xin nghỉ việc lên trả cho huyện. Không khí ở địa phương rất căng thẳng, ngày nào cũng có hàng trăm người lên UBND xã chất vấn cán bộ. Ngày 12/11/1997, khoảng 400 người dân xã Quỳnh Hoa kéo lên UBND tỉnh khiếu tố, đòi gặp chủ tịch tỉnh.
Do không chấp nhận giải thích của lãnh đạo UBND tỉnh, một số người đã hành động quá khích, gây rối trật tự công cộng, lăng mạ chửi bới cán bộ trước cổng UBND tỉnh. Đoàn người tập trung ngòai cổng trụ sở UBND tỉnh từ sáng tới chiều tôi thì nhiều người trèo qua cổng và hàng rào tràn vào UBND tỉnh, đập phá cửa kính, hò hét, chửi bới.
Trước tình hình đó, ngày 13/11 cơ quan bảo vệ pháp luật đã bắt một số người phạm pháp quả tang trong đoàn khiếu kiện tại thị xã và tại xã Quỳnh Hoa. Đối phó lại, ngay chiều tối hôm ấy, tại xã Quỳnh Hoa hàng nghìn người bao vây cản trở không cho công an thi hành nhiệm vụ, lùng sục bắt giữ 23 công an và 1 cán bộ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; cướp 1 máy bộ đàm ném xuống ao, phá hỏng 1 xe ô tô; đối xử tàn nhẫn thô bạo với những người bị bắt đồng thời tổ chức rào làng, đặt chướng ngại vật, huy động thanh thiếu niên sử dụng dao kiếm, côn gậy tuần tra canh gác, liê tục đánh kẻng, gõ mõ báo động, kiểm soát chặt chẽ “nội bất xuất, ngoại bất nhập” gây không khí căng thẳng.
Trong khi đó, hàng trăm người ở các xã Quỳnh Mỹ, Quỳnh Giao, Quỳnh Thọ, An Ấp, An Thái cũng kéo sang Quỳnh Hoa, càng làm cho tình hình thêm phức tạp.
Sau 2 ngày thuyết phục vận động, đến 16h ngày 16/11/1997, 20 cán bộ chiến sĩ công an mới được trả tự do (4 chiến sĩ đã tự giải thoát)
Hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể xã Quỳnh Hoa hoàn toàn bị tê liệt, không kiểm soát được tình hình. Các đoàn công tác của tỉnh, huyện cũng phải rút khỏi Quỳnh Hoa. Sự kiện Quỳnh Hoa gây chấn động dư luận, thu hút sự quan tâm chú ý của cả nước.
Từ ngày 2 đến 4/7/1998, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án “gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, bắt giữ người trái pháp luật” xảy ra tại Quỳnh Hoa. Vụ án có 40 bị cáo, đông nhất từ trước đến nay ở Thái Bình, 28 bị cáo bị tạm giam, 12 bị cáo tại ngoại, một số bị cáo là thương binh, đối tượng chính sách.
Đào Văn Tá bị xử phạt 11 năm 6 tháng tù giam, Nguyễn Văn Hội 9 năm tù giam, Nguyễn Xuân Hùng 8 năm tù giam. Các bị cáo khác bị phạt tù từ 7 năm đến 18 tháng tù cho hưởng án treo. Đồng thời cơ quan cảnh sát điều tra Thái Bình cũng quyết định khởi tố vụ tham ô tài sản XHCN đối với Nguyễn Thanh Vận, Phan Văn Phền, Chủ nhiệm và nguyên chủ nhiệm HTX nông nghiệp Quỳnh Hoa.”
Trích: TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH. TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH. NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. 2010. Trang 1082 – 1083.

2. Vụ Quỳnh Hội

“Sự kiện khởi đầu của tình hình mất ổn định chính trị – xã hội ở Thái Bình. Trong 2 tháng cuối 1996, hàng trăm người ở xã Quỳnh Hội huyện Quỳnh Phụ nhiều lần lên xã, huyện, tỉnh khiếu tố về việc UBND huyện Quỳnh Phụ không thực hiện quỹ đất 5% là trái với chủ trương của tỉnh; các khoản dân phải đóng góp quá lớn; cán bộ xã có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Dân yêu cầu cấp trên thanh tra, xử lí cán bộ sai phạm.
Ngày 5/12/1996, UBND huyện Quỳnh Phụ thành lập đoàn thanh tra liên ngành, tiến hành thanh tra việc xây dựng cơ bản, ngân sách xã và kinh tế HTX Nông nghiệp. Kết quả thanh tra xây dựng cơ bản (trạm bơm, cải tạo mương máng, làm đường giao thông…) bước đầu phát hiện có dấu hiệu tham ô 90.600.000 đồng.
Thanh tra kinh tế, tài chính xã, phát hiện chi sai nguyên tắc 48.275.000 đồng. Ngoài ra còn có nhiều biểu hiện tiêu cực trong việc mua thóc giống, vay tiền cá nhân sử dụng cho HTX với lãi suất cao…
19h30 ngày 26/12/1996, Chi nhánh điện Quỳnh Phụ ngừng cấp điện cho xã vì còn nợ chi nhánh 3.800.000 đồng. Hàng nghìn người trong xã kéo đến nhà chủ tịch UBD xã thắc mắc và một số người quá khích đã đập phá tài sản, làm thiệt hại khoảng 3.000.000 đồng.
Ngay sau khi sự việc xảy ra, dưới sự chỉ đạo của Lãnh đạo công an tỉnh, của Thường trực huyện ủy, UBND huyện Quỳnh Phụ, lực lượng công an và các ngành đã tập trung giải quyết nhằm ổn định tình hình.
Ngày 26/12/1996, Công an huyện Quỳnh Phụ đã khởi tố vụ án gây rối trật tự công cộng, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Toán, Phạm Văn Quýnh, Nguyễn Tiến Mừng.
Ngày 14/1/1997, khởi tố điều tra vụ án tham ô, cố ý làm trái gây thiệt hại tài sản XHCN, khởi tố 3 bị can: Đặng Đình Thảo (Bí thư Đảng ủy xã, nguyên Chủ nhiệm HTX), Nguyễn Quốc Dũng (kế toán trưởng), Vũ Thị Tám (thủ quỹ HTX nông nghiệp).” Trích: TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH. TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH. NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. 2010. Trang 1083.

3. Vụ Quỳnh Mỹ

Vu gây rối trật tự nghiêm trọng nhất. Ngày 6/5/1997, Phạm Hữu Hoành, Phạm Văn Tới và Nguyễn Văn Ty tự nhận là đại diện cho nhân dân đứng ra in giấy mời, triệu tập Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã, Bí thư chi bộ, xóm trưởng, trưởng các ban ngành của xã về Hội trường UBND để họp bàn chống tham nhũng.
Tại đây Phạm Hữu Hoành công khai đả kích , phê phán chính quyền xã, kích động quần chúng kéo lên huyện, tỉnh yêu cầu xử lý những cán bộ mà họ cho là tham nhũng.
Xét hành vi của Phạm Hữu Hoành và Phạm Văn Tới có dấu hiệu về tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước và xã hội”, ngày 8/5/1997, Công an huyện Quỳnh Phụ đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt Phạm Hữu Hoành và Phạm Văn Tới. Lập tức, từ ngày 9 đến 11/5/1997, hàng nghìn người xã Quỳnh Mỹ và các xã lân cận liên tiếp kéo lên huyện đòi thả người bị bắt.
Chiều 10/5, khoảng 3.000 người đã tràn vào Viện kiểm sát nhân dân huyện, một số người đã đập phá phòng làm việc và lăng mạ, súc phạm Viện trưởng; thu và xé tài liệu của Viện kiểm sát nhân dân.
Tình hình càng căng thẳng khi hàng trăm người của xã Quỳnh Hồng cùng số dân xã Quỳnh Mỹ kéo đến bao vây trụ sở công an huyện. Trong suốt 6 giờ đồng hồ (từ 19 giờ ngày 10/5 đến 1 giờ sáng ngày 11/5) khoảng 2.000 người tụ tập trước trụ sở công an huyện. Lợi dụng đêm tối, một số người quá khích hò hét, chửi bới, xô đổ cổng, dậu của Công an huyện và trường Đảng huyện; dùng gạch đá tấn công trụ sở và cán bộ chiến sĩ công an đang làm nhiệm vụ. Họ còn dùng các vật cản chắn đường ô tô, ngăn không cho lực lượng công an tỉnh và công an các huyện tăng cường; đồng thời tổ chức săn lùng, đánh đuổi các chiến sĩ công an. 11 cán bộ chiến sĩ công an bị thương, nhiều tài sản bị hư hỏng, trong đó có 3 xe chữa cháy, 1 xe cứu thương, 1 xe chở quân, vỡ nhiều lá chắn, hỏng toàn bộ cánh cửa nhà 2 tầng, hệ thống chiếu sáng và nhiều máy móc thông tin liên lạc..
Để giảm bớt áp lực của quần chúng, tạm ổn định tình hình, Thường trực Tỉnh ủy và UBND Tỉnh đã họp bàn thống nhất chủ trương tạm tha 2 đối tượng bị bắt. Được thể, một số người ở Quỳnh Mỹ đã ép Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện phải ký vào văn bản họ viết sẵn, thừa nhận việc bắt người là sai rồi công bố trên Đài truyền thanh xã Quỳnh Mỹ và tổ chức ăn mừng thắng lợi.
Trích: TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH. TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH. NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. 2010. Trang 1083 – 1084.

4. Vụ Thái Thịnh

Vụ tham nhũng, tiêu cực và gây rối trật tự công cộng điển hình ở huyện Thái Thụy.
Ngày 25/6/1997, 60 người dân xã Thái Thịnh lên UBND tỉnh kiến nghị giải quyết thanh quyết toán các công trình xây dựng của xã và tố cáo Chủ tịch xã vi phạm luật đất đai, tham nhũng. Buổi tối cùng ngày, quần chúng họp tại 2 địa điểm xóm 1 và xóm 5 để nghe thông báo kết quả đi khiếu kiện ở tỉnh về.
14h ngày 26/6/1997, trong lúc Đảng bộ xã đang họp bàn chủ trương thực hiện công văn số 279 của UBND tỉnh, hơn 200 người kéo đến bao vây trụ sở, yêu cầu xã phải thực hiện ngay công văn số 279. Chủ tịch xã ra giải quyết yêu cầu mọi người giải tán. Quần chúng không nghe và có lời lẽ thô tục, lăng mạ.
5h chiều cùng ngày, Chủ tịch huyện cùng đoàn cán bộ huyện Thái Thụy về xã Thái Thịnh để giải quyểt, hứa sẽ chỉ đạo xã thực hiện nghiêm túc công văn 279 của UBND tỉnh. Có tới hàng nghìn quần chúng tụ tập tại trụ sở UBND xã. Những người quá khích đã ào lên vây giữ Chủ tịch huyện và đoàn cán bộ. Lực lượng công an tìm cách đưa được Chủ tịch huyện ra ngoài. Chủ tịch xã và Trưởng công an huyện bị một số phần tử xấu hành hung trọng thương. 6 cán bộ khác của xã, trong đó có Bí thư Đảng ủy và 3 an ninh viên bị xâm phạm đến thân thể. Toàn bộ bàn ghế, cánh cửa, tủ đựng tài liệu, tăng âm, loa đài của xã và HTX bị đập phá và mất 13,600,000 đồng quỹ UBND xã.
Sau đó, họ kéo đập phá nhà, tài sản gia đình Phạm Văn Chiêm (Chủ tịch xã), Phạm Văn Nghị (Phó Chủ tịch xã), Đinh Thị Tâng (Cán bộ địa chính xã), gây nhiều thiệt hại.
Tình hình rối loạn diễn ra từ 7 giờ tối ngày 26/6 đến 1 giờ sáng ngày 27/6/1997.
Để giải quyết ổn thỏa tình hình xã Thái Thịnh, Thường trực Tỉnh ủy Thái Bình đã chỉ đạo 3 ngành Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án tiến hành đồng thời việc điều tra truy tố những đối tượng quá khích, gây rối trật tự công cộng, vi phạm pháp luật với việc truy tố những cán bộ xã có hành vi tham nhũng, tiêu cực là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc khiếu kiện phức tạp của quần chúng.
Ngày 3/7/1997, Công an tỉnh đã thực hiện lệnh bắt 5 đối tượng chủ yếu (Vũ Văn Kiện, Vũ Văn Tuấn, Phạm Văn Vịnh, Ngô Thị Duyên, Phạm Văn Khuynh) trong 36 đối tượng gây rối trật tự công cộng, cố ý hủy hoại tài sản XHCN, tài sản công dân, cố ý gây thương tích, xảy ra đêm 26/6/1997 tại Thái Thịnh.
Đồng thời, Công an tỉnh khẩn trương điều tra, xác định Phạm Văn Chiêm (Chủ tịch xã từ 1991 – 1997) đã cấp trái phép 23.686m2 đất và đã cùng Phạm Văn Thiện (Phó ban tài chính xã) vi phạm các quy định về chế độ, nguyên tắc quản lí kinh tế nhà nước, gây thất thoát ngân sách xã hơn 220 triệu đồng. Chiêm tham ô 24.670.000 đồng, Thiện tham ô 63.804 ngàn đồng.
Một số cán bộ chủ chốt khác của xã như Phạm Thanh Nghị (Phó chủ tịch xã) , Phạm Văn Thái (Bí thư Đảng ủy xã), Phạm Huy Khản (Phó Bí thư Đảng ủy xã), Phạm Thị Duyên (Thủ quỹ UBND xã) đồng phạm gây thất thoát 154 triệu đồng ngân sách xã. Ngoài ra, Nghị còn tham ô 13 triệu đồng, Thái 11 triệu đồng, Khản hơn 2 triệu đồng, Duyên 5 triệu đồng, Tăng hơn 13 triệu đồng.
Trích: TỪ ĐIỂN THÁI BÌNH. TỈNH ỦY-HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN-ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH. NXB VĂN HÓA THÔNG TIN. 2010. Trang 1084 – 1085.
Nguồn: Nguyenvanhoc