Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2009

Ðôi bên sông Bùng – Một vùng văn hóa

(Baonghean) - Với tôi, sống xa quê, hình ảnh con sông luôn làm tôi thèm tiếc cả một thời thơ ấu, để rồi mỗi lần được gặp người quê hàn huyên, tôi lại quắt lòng bởi nhớ quê hương da diết...


“Qua nửa đời phiêu bạt
Con lại trở về úp mặt vào sông quê
Ơi con sông dạt dào như lòng mẹ
Che chở con qua chớp bể mưa nguồn…”



Có lẽ nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã nói hộ tình cảm của rất nhiều người xứ Nghệ sống xa quê. Nếu ai biết nhà thơ tài hoa này đã từng sinh ra và lớn lên ở một làng quê, bên con sông Bùng xứ Diễn, hẳn đều đồng cảm và sẻ chia với ông qua tứ thơ này. Riêng với tôi, sống xa quê, hình ảnh con sông luôn làm tôi thèm tiếc cả một thời thơ ấu, để rồi mỗi lần được gặp người quê hàn huyên, hay về quê, tôi lại quắt lòng bởi câu thơ đó.



Lèn Hai Vai

Sông Bùng bắt nguồn từ những dòng sông, suối nhỏ như sông Du, Vũ Giang, Khe Cát của huyện Yên Thành và hợp lưu nơi đất Diễn Châu, chảy qua các xã Diễn Quảng, Diễn Hoa, Diễn Kỷ, sau đó đổ ra biển Diễn Ngọc. Con sông Bùng cứ lặng lẽ trôi – chảy qua miền ký ức. Hình ảnh của vùng quê xứ Diễn luôn lắng đọng trâm tâm tưởng những người con xa quê.
Diễn Châu là vùng đất giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, những địa danh gắn với các huyền thoại như Thành Diễn Châu - nơi chứng kiến trận đánh quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, thế kỉ XV; Cầu Bùng - cây cầu nằm trên con đường huyết mạch Bắc – Nam, nơi được coi là túi bom trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; núi Mộ Dạ - nơi An Dương Vương được thần Kim Quy mở lối thoát về phía biển khi trốn chạy giặc Triệu. Ngày nay ở phía Bắc chân núi Mộ Dạ gần cửa Tư Hiền còn có mộ của công chúa Mỵ Châu.
Đền Cuông thờ vua An Dương Vương

Diễn Châu cũng là nơi phát tích của những anh tài, khoa bảng. Ở Diễn Châu những dòng họ khoa bảng có nhiều, nhưng nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Đặng. Dòng hộ Ngô ở Lý Trai (xã Diễn Kỷ) liên tiếp 4 đời đỗ 5 tiến sĩ. Dòng họ Đặng ở Nho Lâm (xã Diễn Thọ) có 3 cha con đều đỗ đại khoa. Một số tên tuổi đại khoa người Diễn Châu mà cả nước đều biết đến như Ngô Trí Hòa, Ngô Trí Tri, Nguyễn Xuân Ôn…. Về Diễn Châu, dân gian vẫn còn truyền tụng câu đối nôm nói về sự đỗ đạt của 2 dòng họ Ngô – Đặng: “Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai, khoai ba bữa / Ông đỗ, cha đỗ, con đỗ, đỗ cả nhà”.
Nói đến Diễn Châu là nói đến một vùng đất phong cảnh hữu tình. Sách xưa đã từng liệt kê trong số 8 cảnh đẹp của “Đông Yên Nhị Châu” (vùng đất thuộc tổng Yên Thành xưa) thì có 6 cảnh đẹp thuộc về Diễn Châu, đó là: Dạ Sơn Linh Tích (Dấu thiêng núi Mộ Dạ - thuộc xã Diễn An), Cao Xá Long (gò rồng Cao Xá), Bùng Giang Thu Nguyệt (tràng thu trên sông Bùng), Bích Hải Quy Phàm (cánh buồm về cửa Bích), Thiên Uy Thiết Cảng (kênh sắt oai trời), Diễn Thành Thạch Bảo (thành đá phủ Diễn Châu). Tao nhân mặc khách thuở nao đã luôn phải động lòng trước Bích Hải Quy Phàm (cửa Vạn ngày nay). Họ từng phải thốt lên:
Phủ hám Bùng giang cổ độ đầu
Nhất luân minh nguyệt cáp phùng thu
Trùng trùng quế phách hàm giang trữ
Trạm trạm kim hàn tẩm bích lưu.
Có nghĩa rằng:
Cúi đầu nhìn xuống bến đò cũ sông Bùng
Một vầng trăng sáng quắc, ấy chính là buổi đang thu
Phách cây quế trong suốt đến đáy cả bến nước
Chiếc mâm vàng trong trẻo ngâm dưới dòng xanh...
Đến Diễn Châu, không ghé thăm cửa Vạn hẳn đó sẽ là một tiếc nuối. Đứng ở Cửa Vạn nhìn ra Biển Đông với bao la bát ngát của trời, của biển, với nắng và sóng, bạn sẽ nhận ra hồn vía của cả một vùng văn hóa Xứ Diễn. Văn hóa xứ Diễn vừa có nét đặc thù của văn hóa Xứ Nghệ - miền Trung, vừa có sắc thái riêng khiến người ta phải ngạc nhiên. Giọng nói của người Diễn Châu âm điệu khác hẳn với giọng nói của các vùng miền khác ở Xứ Nghệ. Dân Diễn Châu “Ăn to nói lớn”, “Bụng dạ thẳng tưng”, quý người và không để bụng. Họ cần cù, chất phác, chịu thương, chịu khó cho nên đi đâu cũng sống được. Tính cần cù, “thắt lưng buộc bụng”, cộng với sự ham học hỏi đã làm nên thành công của người Diễn Châu khi bước ra cuộc sống. Có lẽ uống nước sông Bùng, tắm phù sa của sông Bùng, cư dân ở đây trong cách ăn, cách nói, nếp nghĩ, nếp làm đều mang “cái gu” khó trộn lẫn.
Không rộng dài, kỳ vĩ như sông Hồng, sông Mã, cũng không thơ mộng như sông Hương… Sông Bùng cứ lặng lẽ chảy giữa đôi bờ xứ Diễn và tạo dựng nên một vùng miền văn hoá rất đặc trưng - vùng văn hoá mang khí thiêng của “lèn Hai Vai- sông Bùng”, trong cái mạch nguồn văn hoá “Sông Lam - Núi Hồng” xứ Nghệ.
Với lợi thế của một vùng đất mà một bên là dải đồng bằng trù phú, màu mỡ, một bên là biển Đông. Cùng với điều kiện tự nhiên cũng ưu ái cho người Diễn Châu, vùng đất được coi như một tiểu vùng không bị ảnh hưởng nhiều của gió Lào (Do có núi Mộ Dạ nằm ở phía Nam nên gió Lào về tới đây bị chặn lại), khiến cho khí hậu Diễn Châu “mát mẻ” hơn so với các vùng miền Trung Bộ khác. Tất cả những điều đó làm cho Diễn Châu được coi là vùng đất “đủ đầy” hơn so với nhiều khu vực khác ở xứ Nghệ.
Hiếm có một dải đất nhỏ hẹp nào lại tập trung nhiều nghề truyền thống như ở Diễn Châu. Đất Diễn Châu với nhiều nghề truyền thống như: luyện thép ở Nho Lâm (Diễn Thọ), dệt vải ở Phượng Lịch (Diễn Hoa), nghề mộc ở Tràng Thân (Diễn Phúc), nước mắm Vạn Phần (Diễn Vạn), nón lá Diễn Đồng, đẽo sò ở Diễn Thành…Cùng với việc duy trì những làng nghề truyền thống, giờ đây Diễn Châu xuất hiện nhiều làng nghề mới theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế như chuyên canh cây lương thực Diễn Kỷ; dâu tằm tơ Diễn Kim; bún bánh Diễn Quảng; chế biến hải sản Diễn Bích, Diễn Ngọc; chổi đót Diễn Đoài; đúc đồng, nhôm Diễn Tháp…
Ngày nay, cùng với các vùng miền khác của cả nước, kinh tế của huyện Diễn Châu ngày càng phát triển. Trong dòng chảy của thời kỳ hội nhập, nhưng những bản sắc văn hóa của người dân đôi bờ sông Bùng vẫn không bị nhạt phai. Người Diễn Châu đã, đang và sẽ tạo ra nhiều huyền thoại. Khí thiêng của lèn Hai Vai – sông Bùng luôn tạo ra những con người như thế.
Bất chợt tôi lại…
Gửi hồn neo đậu bến quê
Bao nhiêu xa ngái dồn về một nơi
Sông quê bên lở bên bồi
Để tôi mang nợ cả đời với quê.

Nguyễn Thanh Điệp

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2009

Thương lắm phong bì ơi!


(Huỳnh Cương - Congannghean.vn)-Từ ngày chuyển sang cơ chế thị trường, phong bì cũng chuyển đổi chức năng, không còn đựng thư từ mà còn đựng tiền. Tình cảm đã được vật hoá thành ngân hàng, đô la, để người nhận có thể đo đếm được.

Xin các bạn đừng vội cho rằng H.C này cạn kiệt hết vốn chữ nghĩa rồi hay sao mà lại tương một cái tít giật gân như thế lên mặt báo, sặc mùi cải lương, giữa lúc thiên hạ đang cực lực phê phán tệ nạn phong bì.
Hãy bình tĩnh, mọi vấn đề đều phải được xem xét một cách toàn diện, lịch sử theo phép biện chứng.
Nếu bạn đã từng là anh lính hải quân ở trên một hòn đảo chìm, đảo nổi Trường Sa, hẳn bạn sẽ mong chờ da diết một cánh thư từ đất liền gửi ra. Lá thư đựng trong phong bì đã vượt qua hàng triệu ngọn sóng để đến với bạn. Bạn đọc thư và giữ cả chiếc phong bì đó như một báu vật.
Hồi còn nhỏ, ở quê, có lần tôi nhận được phong bì của ông Tổng biên tập báo tỉnh gửi, báo tin mẩu tin bao diêm đầu tiên tôi viết đã được in và động viên tôi tiếp tục cộng tác. Tôi sung sướng còn hơn bắt được vàng. Tôi dán chiếc phong bì lên bức vách cạnh tấm huân chương kháng chiến của bố tôi và mãi đến nay vẫn còn giữ được mấy dòng chữ của sếp nhà báo.
Các bạn thấy chiếc phong bì có đáng yêu, đáng trọng không nào.
Từ ngày chuyển sang cơ chế thị trường, phong bì cũng chuyển đổi chức năng, không còn đựng thư từ mà còn đựng tiền. Tình cảm đã được vật hoá thành ngân hàng, đô la, để người nhận có thể đo đếm được.
Giờ đây, không có phong bì làm sao có thể dễ dàng xin đất làm nhà, chữa bệnh chóng khỏi, đưa con vào trường điểm, chạy xuất khẩu lao động. Rồi còn chạy chức, chạy quyền, chạy học hàm học vị..., mua các danh hiệu cao quý, trở thành sao trên các lĩnh vực đời sống.
Phong bì trở thành đồng loã với những kẻ xấu, trở thành vật bao che cho những cái đen tối trong lòng nó.
Không có phong bì làm sao các xếp tham nhũng có xe hơi xịn, có biệt thự nguy nga, có tiền gửi ngân hàng nước ngoài, nếu như mọi người chỉ biết tặng mấy bông hoa rẻ tiền và cảm ơn mồm.
Nói như thế không phải vơ đũa cả nắm, vẫn còn những phong bì trong sáng, nhân ái khi chúng ta câm nó bỏ vào thùng, chia sẻ khó khăn, nhường cơm sẻ áo cho đồng bào bị lũ lụt, cho những em bé đang cần mổ tim, cho những gia đình bị chất độc đi - ô - xin...
Những kẻ tham nhũng hí hửng đón nhận phong bì hối lộ, sau khi say sưa kiểm tra món ngân hàng, đô la, cẩn thận bỏ vào tủ sắt, khoá lại liền vứt toẹt chiếc phong bì vào sọt rác. Cảnh giác hơn họ cho một mồi lửa để phi tang. Phong bì bị thiêu sống. Thương lắm phong bì ơi!

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2009

Vườn thị cổ – cần phải được “định giá” và có chiến lược bảo tồn



Vào một ngày ấm áp đầu đông, chúng tôi “bố trí” được cơ hội về thăm lại “vườn thị cổ” của ông Lê Minh Thưởng ở Nghi Thịnh, Nghi Lộc, Nghệ An. Vẫn với sự nhiệt tình đón khách của cụ Thưởng với những câu chuyện kể về xưa và nay làm cho độ hưng phấn của chúng tôi càng lên cao hơn.

Tuy đã ở tuổi "cổ lai hy" nhưng chủ nhân vẫn rất nhanh nhẹn và nhiệt tình hướng dẫn - ảnh Hoàng Hoa Quế


Chúng tôi được “mắt thấy tay sờ” các cây thị cao hàng chục mét, đường kính có cây đến gần 3m. Nhiều cây đã mục rỗng ruột bên trong nhưng bên ngoài vẫn còn biểu hiện sức sống khỏe khoắn của các đại thụ.


Cây thị (Diospyros decandra Lour) thuộc họ thị (ebenaccae) rất gần gũi với chúng ta, được trồng rải rác trong các vườn gia đình, nhất là ở đình chùa, miếu mạo để lấy quả. Theo kinh nghiệm dân gian, hầu hết các bộ phận của cây thị đều được dùng làm thuốc chữa bệnh rất tốt. Chắc không phải chỉ là tự nhiên mà tác giả vô danh của chuyện Tấm Cám cho cô Tấm từ trong quả thị chui ra. Người cô gái ấy chắc phải thơm lắm, vì quả thị có màu đẹp thế, da thịt căng thế, hương thị thơm thế. Nếu không thì sao cô Tấm không chui ra từ quả mít, quả na, quả sầu riêng, quả bứa thật chua, quả dừa toàn nước...?


Qua lời giới thiệu của chủ nhân vườn thị, chúng tôi biết được “tính nết” của từng cây cây: cây thì quả to như quả cam, cây thì quả nhỏ nhưng thịt thơm ngọt và không có hạt(?), 5 cây thị cổ nhất trong vườn này có tuổi khoảng 600 năm(?). Cụ kể rằng (theo cuốn gia phả họ Lê Văn) vào thế kỷ 16, Lê Văn Hoan, một người con của dòng họ này, theo nghĩa quân Tây Sơn và được phong tướng quân; khi hành quân ra Bắc đánh nhà Trịnh, ông đã cho đại quân dừng chân ở vùng đất thiêng này, cho cột đàn voi chiến dưới những gốc cây thị cổ thụ và sai người lập đền thờ bên cạnh cây lớn nhất. Rồi những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, hàng chục, hàng trăm lượt đơn vị bộ đội đã trú quân dưới những gốc thị già trước khi hành quân vào Nam chiến đấu.


Điều thật ngạc nhiên là mặc dầu nơi đây là trọng điểm ném bom, bắn phá của máy bay Mỹ, vùng đất này đã gánh chịu hàng chục tấn bom đạn, không một tấc đất nào nơi đây không bị cày xới, nhà thờ họ Lê Văn (ở trong vườn) đã bị bom đạn làm cháy, nhưng 5 cây thị không hề bị trúng quả bom nào.
Năm tháng qua đi, những cây thị giờ đã già lắm rồi, nhưng nhựa sống vẫn tràn trề, hàng năm cây vẫn đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái. Tuy nhiên những áp lực đè nặng lên những cây thị cổ này là mối, mục phá hại và biết đâu một ngày nào đó nó bị... bán mất đi???

Vì vậy theo tôi 5 cây thị cổ này cần được xác định giá trị và có chiến lược bảo tồn. Về giá trị của nó thể hiện ở các mặt sau đây:

Thứ nhất là giá trị về sinh thái:
Với tán hình ô, xòe rộng hàng chục mét, các cây thị đã tạo nên độ khép tán gần kín toàn bộ khu vườn hàng ngàn m2 tạo nên bóng mát xanh trong lành, nếu được đầu tư để kinh doanh kiểu du lịch sinh thái thì chắc chắn nơi đây sẽ là điểm nhấn trong hệ thống du lịch sinh thái của Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung.

Giữ được cây cổ thụ như thế này ở trong vườn là một kỳ công của dòng họ Lê Văn -ảnh HHQ


Thứ hai là giá trị về tâm linh:
Đối với người Việt, cây cối là loại sinh thể đặc biệt, có đời sống trực giác tâm linh y như con người; có năng lượng phát ra và tương tác được với năng lượng của con người. Vì vậy, cây cối được người Việt sử dụng trong phép điều hòa môi trường sống (phong thủy) như là những nội dung chủ đạo (cùng đá, nước, núi, phương hướng..). Mặt khác, cây còn được coi là nơi trú ngụ của các vị thần linh hay ma quỷ. Dân gian người Việt có câu: "Cây thị có ma, cây đa có thần". Những cây cổ thụ thường được nhân dân thắp hương, lập miếu thờ cúng.


Tục thờ cây của nhân dân Việt Nam - ảnh Tăng Văn Tân


Thứ ba là giá trị về lịch sử:
Vườn thị này đã “chứng kiến” nhiều sự kiện lịch sử của nước nhà như: là nơi dừng chân của nghĩa quân Tây sơn trên đường tiến quân ra Bắc???. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là nơi dừng quân của các đơn vị bộ đội trước khi vào Nam. Nơi đây còn là căn cứ chỉ huy chiến đấu của tỉnh đội Nghệ An (ông còn chỉ cho chúng tôi xem chỗ đào hầm chữ A dưới gốc cây, chỗ cây mục dùng để nhốt các chiến sĩ vi phạm kỉ luật)


Thứ tư là giá trị về nghiên cứu khoa học:
Trải qua 600 năm, các cây thị đã ghi lại dấu ấn của những biến động về thời tiết, bức tranh về thời tiết được “ghi” lại trong từng thớ gỗ. Các nhà khoa học có thể “giải mã” về sinh trưởng của cây qua các thời kỳ...

Thứ năm là giá trị về kinh tế:
Mỗi năm vườn thị này cho hàng tấn quả. Quả thị có vị ngọt, thơm nên được người dân mua về thưởng thức. Mùa quả chín rộ vào tháng 7 âm lịch hàng năm lại trùng với mùa du lịch nghỉ mát Cửa Lò, nhiều đoàn khách biết được đây là những cây thị cổ nên đã đặt mua hàng ngàn quả. Điều lạ kỳ mà chúng tôi nhận thấy là lúc này đã vào mùa đông mà vẫn có cây cho quả trĩu cành. Biết chúng tôi có ý định xin hái quả làm kỉ niệm, ông thoăn thoắt leo lên và hái cho chúng tôi hàng chục quả.
Theo lời ông, có “đại gia” đến trả 5 cây thị cổ này 2,5 tỉ VND nhưng ông vẫn từ chối. Ông nói, ông muốn giữ lại cho gia đình, cho quê hương một món quà vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng và tổ tiên đã có công giữ gìn.

Vào mùa đông mà cây vẫn cho trĩu quả - ảnh Hoàng Hà


Chúng tôi ra về nhưng vẫn còn lưu luyến mãi, lưu luyến không chỉ vì sức sống diệu kì của các cây thị cổ mà còn vì sự nhiệt tình của chủ nhân. Hiện nay, chiến tranh đã đi qua, nhưng liệu các cây thị cổ này có còn lưu giữ được trong cơ chế kinh tế thị trường hay không? được biết hiện nay 2 trong 5 cây đã có bị mục rỗng, lại bị mối đất tấn công, mặt khác đã có người muốn mua đào đi nơi khác.

Đã đến lúc các các cơ quan chức năng cần phải xác minh cụ thể về niên đại, giá trị và có giải pháp bảo tồn vườn thị có một không hai này./.

11/2009